Nét văn hoá truyền thống của dân tộc M’Nông

(LVH) – Người M’Nông là một trong những tộc người xuất hiện sớm nhất ở vùng đất Tây Nguyên và bảo lưu được nhiều nét văn hoá đặc trưng của dân tộc. Đó là những lễ hội truyền thống và kho tàng văn hóa dân gian độc đáo như: kể chuyện sử thi, đánh cồng chiêng, dân ca, dân vũ…

Lễ cúng mưa đầu mùa, một trong những nghi lễ nông nghiệp về cầu an tiêu biểu của người M’nông tỉnh Đắk Nông đã được chính chủ thể tái hiện lại tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam 

Người M’nông trước đây có tập quán sống du canh, du cư. Họ làm nhà trên triền đồi bên bờ suối để tiện cho việc sinh hoạt. Mái nhà lợp bằng tranh, phủ sà xuống và thấp đến nỗi một đứa nhỏ khoảng năm, sáu tuổi cũng có thể sờ được đuôi của mái nhà. Khi lúa tuốt xong (họ không có thói quen dùng liềm cắt lúa, vì cho rằng dùng liềm, dao cắt lúa làm đau cây lúa, sợ “Jàng lúa” phạt mùa sau bị mất mùa) phơi khô, đổ vào chòi rồi để luôn ngoài nương rẫy. Bắp, bí, dưa leo… cũng vậy, họ chỉ gùi về nhà một ít vào mỗi buổi chiều khi đi rẫy về, đủ ăn trong một hoặc hai ngày, mọi sản vật cứ để trong rẫy như thế nhưng không bị mất bao giờ, dù no, dù đói không ai lấy trộm của ai.

Trang phục của họ cũng đơn giản tới mức tối đa. Đàn ông thường ở trần, bên dưới quấn chiếc khố. Đàn bà cũng ở trần, thỉnh thoảng mới có người mặc áo, bên dưới quấn bằng tấm sơ rê tự dệt. Họ đi chân trần. Quai gùi họ mang in lằn đỏ cả hai vai, đi trong cái nắng, cái mưa, hết lên dốc lại xuống dốc của miền cao nguyên rất là vất vả. Cuộc sống của họ cứ thế trôi đi và hình thành nên tính cách thật thà rất đáng trân trọng. Họ không tham lam, không bon chen, không cạnh tranh. Đặc biệt là, họ tôn trọng phương thức bằng nhau. Cuộc sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên, cộng với phương thức bằng nhau trong kinh tế hình thành tính cách, tập quán, văn hóa lâu đời người M’nông.

Trang phục của người M’Nông

Người M’Nông vẫn tồn tại niềm tin vào tín ngưỡng đa thần. Họ tin rằng, thần linh trú ngụ khắp nơi: Thần đất phù hộ cho gia đình; thần đá bếp giữ lửa ấm, nấu ăn; thần rừng nuôi chim thú cung cấp lương thực cho con người; thần núi; thần suối, thác nước giữ nguồn nước cho bon (buôn) làng; thần lúa và thần hoa màu cho vụ mùa bội thu, cây cối tươi tốt; thần sét ở trên trời trừng phạt kẻ làm điều xấu. Theo phong tục, cứ sau một mùa rẫy là các bon làng người M’Nông lại tổ chức các nghi lễ – lễ hội, nhằm tạ ơn các vị thần linh, trời đất, tạ ơn tổ tiên ông bà đã phù hộ cho mọi người lúa thóc đầy bồ, heo bò đầy sân, chật bãi. Những lễ hội như: lễ hội rượu cần, mừng lúa mới, lễ cưới hỏi, lễ trưởng thành, lễ cúng voi …mang bản sắc của một cộng đồng sinh sống bằng nông nghiệp trồng lúa nước, săn bắn, hái lượm… và còn tồn tại nhiều lễ hội như: lễ cúng lúa mới, lễ cầu mưa, lễ cầu mùa. Tuy nhiên, có một nghi lễ lớn được đồng bào coi trọng là lễ bỏ mả. Lễ bỏ mả hiện vẫn phổ biến ở vùng Ea sup và Buôn Đôn của tỉnh Đắc Lắc. Một lễ hội lớn nữa là lễ hội đua voi của người M’Nông, đến nay gần như trở thành lễ hội của cả tỉnh. Ngoài ra còn có lễ hội tắm cho voi, cúng sức khoẻ cho voi..”

Dân tộc M’nông (Đắk Lắk) tái hiện Lễ cúng cơn mưa đầu mùa tại “Ngôi nhà chung”

Lễ bỏ mả (nghi lễ tiễn biệt người chết) được người M’Nông rất coi trọng, vì theo quan niệm của người M’Nông, một người vừa qua đời thì linh hồn của họ vẫn giữ mối liên hệ với người sống. Do vậy, sau khi người chết được an táng, gia đình vẫn làm lễ cúng cơm. Phải sau 3-5 năm sau, dân trong Bon làng mới tổ chức lễ bỏ mả. Theo phong tục: sau lễ bỏ mả tiễn biệt người chết, người ta không bao giờ nhắc đến người chết nữa và cho rằng người chết đã đến một thế giới khác. Nghi lễ bỏ mả gồm các nghi lễ diễn xướng tổng hợp: đánh cồng chiêng, múa, hát, múa rối và cả các các trò chơi dân gian, và cùng tuỳ điều kiện kinh tế của gia đình mà họ làm lễ bỏ mả. Gia đình mổ heo, gà đãi dân làng, phân công người vào trong rừng lấy gỗ tạc tượng (gọi là tượng nhà mồ). Các tượng này luôn gắn với cuộc sống của người chết như: tượng voi, chim thú, người giã gạo, cho con bú, tượng người ôm mặt khóc hay tượng người đánh trống… thể hiện tình cảm với người chết…Cho đến bây giờ dân tộc M’ Nông vẫn bảo lưu được nhiều nét bản sắc văn hoá đặc trưng của mình, trong đó người M’Nông ở Buôn Đôn vẫn duy trì nghề thuần d¬ưỡng voi nổi tiếng. Đặc biệt là họ vẫn bảo tồn được những làn điệu dân ca giàu chất trữ tình và các bộ sử thi. Trong đó bộ sử thi “Ót N’Rông” của dân tộc M’ Nông được coi là bộ sử thi lâu đời và cổ xưa nhất, phản ánh tiến trình phát triển của xã hội các dân tộc Tây Nguyên trong đó có người M’Nông.

Toàn cảnh không gian lễ hội tại làng dân tộc M’nông, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô – Sơn Tây – Hà Nội

Cộng đồng người M’Nông nhiều nơi hiện vẫn giữ gìn được những sinh hoạt văn hoá đặc trưng của dân tộc mình và chính quyền, các ngành chức năng ở các địa phương cũng rất quan tâm đến công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động bà con để người dân cảm thấy yêu văn hoá truyền thống của mình”. Các hoạt động thiết thực này đã và đang giúp đồng bào dân tộc M’Nông giữ gìn được nét đặc trưng của văn hóa của dân tộc mình.

Nguồn: Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (langvanhoavietnam.vn)

Bài viết liên quan